BẢN NHẬN XÉT PHẢN BIỆN LUẬN ÁN TIẾN SĨ
“DI SẢN MÚA CHĂM
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC
CHĂMPA”.
1. Tính cần thiết,
thời sự, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án
Nghệ thuật múa Chăm là một
trong những nghệ thuật múa đặc sắc trong nghệ thuật múa các dân tộc Việt Nam. Múa
Chăm đa dạng về màu sắc, phong phú về ngôn ngữ động tác và độc đáo về tạo dáng.
Đặc biệt, nghệ thuật múa Chăm đương đại đã kế thừa được di sản múa Chăm gắn với
tôn giáo, tín ngưỡng được hình thành từ lâu đời, thể hiện trên các tác phẩm
điêu khắc Chăm Pa.
Từ năm 1976, khi thành lập
Đoàn Ca múa Thuận Hải đến nay, hàng trăm điệu múa Chăm đã được dàn dựng và biểu
diễn, phong trào múa Chăm lan rộng không chỉ ở các Đoàn nghệ thuật miền Trung
mà cả những Đoàn Nghệ thuật trung ương, các tỉnh bạn và trong phong trào ca múa
nhạc không chuyên. Tuy nhiên, một số tác phẩm múa được gọi là “múa Chăm” đã bị
phê phán, thậm chí có cả đơn khiếu nại của một số chức sắc tôn giáo Chăm gửi
các cấp quản lý về việc không hài lòng về một số hình tượng múa đối với các vị
thần trong tín ngưỡng, tôn giáo của họ. Một số tác phẩm gọi là “múa Chăm” nhưng
chỉ là “tên gọi” vì từ trang phục, ngôn ngữ động tác xa lạ với người Chăm và
văn hoá Chăm. Những hạn chế đó là do thiếu căn cứ khoa học nghiên cứu về ngôn
ngữ múa Chăm. Đề tài luận án này là một trong những đề tài đáp ứng được những
nhu cầu thực tiễn của sự nghiệp phát triển múa Chăm nói riêng và ngành múa Việt
Nam nói chung. Kết quả nghiên cứu của luận án có sự đóng góp tư liệu và một số
nhận định mới về chuyên ngành múa.
2. Đề tài luận án,
số liệu, kết quả nghiên cứu, kết luận không trùng lắp với các công trình, luận
văn, luận án đã công bố ở trong và ngoài nước.
3. Tính trung thực,
rõ ràng và đầy đủ trong trích dẫn tài liệu tham khảo:
Nhìn chung, luận án sử dụng tài liệu tham khảo trung
thực, rõ ràng. Tuy nhiên có một số nơi tác giả dẫn nguồn hoặc không ghi “dẫn
theo” tài liệu tham khảo, tại các TLTK số [25]: Ngô Văn Doanh (1994), Tháp cổ Chăm Pa, sự thật và huyền thoại,
Nxb VHTT, Hà Nội; TLTK số [43] (1998), Bước
đầu tìm hiểu, phục hồi múa cung đình Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội; TLTK số [55], Kỷ
yếu hội thảo (2013), Bảo tồn và phát huy
nghệ thuật ca múa nhạc Chăm trong quá trình hội nhập hiện nay, Trung tâm
UNESCO nghiên cứu và bảo tồn văn hóa Chăm, Tp HCM. Ở đây, NCS sử dụng tư liệu của
những tác giả có trong danh mục TLTK như H. Parmantier [39], P. Stern [74] v.v…
NCS không sử dụng bản gốc mà thông qua một tác giả khác như Ngô Văn Doanh, Đặng
Hùng và kỷ yếu hội thảo nhưng lại không ghi “dẫn theo”. NCS trích dẫn khá nhiều
tư liệu từ kỷ yếu hội thảo [55]. Ngoài ra, đối với tài liệu tham khảo, NCS cần
phải đánh giá hàm lượng khoa học của một số công trình về múa Chăm của các tác
giả là biên đạo múa nổi tiếng, mặc dù các tác giả đó đã hết sức tâm huyết, thậm
chí cả cuộc đời gắn bó với múa Chăm nhưng dù sao đó là nghiên cứu dưới góc nhìn
của nghệ sĩ.
Ngược lại, một số TLTK tác giả có sử dụng nhưng không
có trong danh mục TLTK như: bài viết về “Lễ tứ tuần đại khánh” của vua Khải Định
(tr.14), cuốn “Tổng hội yếu tập cao” có nhiều thông tin về Chăm Pa từ năm 960 –
1180 (tr.30), NCS có phân tích luận văn thạc sĩ “Múa Chăm ở Ninh Thuận” của
Nguyễn Thị Hội An (2009) nhưng không có trong tài liệu tham khảo; theo Minh sử
(tr.47). Một số nơi tác giả trích dẫn tư liệu có ghi số TLTK nhưng không ghi số
trang (tr.91 - 92) [43]. Một số tư liệu nhưng không dẫn nguồn TLTK như “múa là chuyển động của cơ thể người bằng
ngôn ngữ hình thể” (tr.25), “Vũ nữ Trà Kiệu… được đánh giá là đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng Chăm Pa và của Đông
Nam Á (tr. 49); Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, ở Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng có
219 hiện vật bằng đá, trong đó có 140 bức phù điêu… (tr.53), những tư liệu
trên cần dẫn nguồn.
Mục 2.1.1. Khái quát lịch sử Chăm Pa (từ trang 41 đến
trang 45), tác giả cần dẫn nguồn tư liệu lịch sử. Về lịch sử Chăm Pa có rất nhiều tài liệu có thể
tham khảo và trích dẫn nhưng tác giả ít tiếp xúc trực tiếp với các tư liệu lịch
sử.
Mục 1.3. Những khái niệm liên quan đến đề tài (tr.20 –
26).
Tác giả viết về vương quốc Chăm Pa xây dựng và tồn tại
từ năm 192 đến năm 1832 là không chính xác. Chính xác phải là từ năm 192 đến
năm 1471.
Tác giả viết, hiện tại, cư dân Chăm gồm có 2 bộ phận
chính là thiếu chính xác. Thiếu người Chăm H’roi ở Phú Yên, Bình Định.
Những khái niệm về văn hóa, di sản văn hóa, giá trị
văn hóa, bản sắc văn hóa: Cần sử dụng (hoặc phân tích, kế thừa) những khái niệm
của những người đi trước. Về khái niệm văn hóa, NCS sử dụng khái niệm “văn hóa
là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong
lịch sử…(tr. 21)” là khái niệm của Liên Xô (Từ điển triết học - Nxb Chính trị
Matxcova - 1972) nhưng không trích dẫn nguồn. Về khái niệm “di sản văn
hóa”, tác giả cần sử dụng khái niệm trong Luật di sản.
Một
số tư liệu về các vị thần tác giả trình bày trong luận án cần ghi rõ nguồn. Chẳng
hạn như các tư liệu về Shiva múa Tanvada trong thần thoại Ấn Độ (tr.58), tư liệu
này có trong công trình: Hoàng Tâm
Xuyên - Chủ biên (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb
CTQG, tr. 205) và trong công trình: Lê Ngọc Canh,“Đại cương nghệ thuật múa” (Nxb VHTT – 2002) và những tư liệu về Uma, thần Visnu
v.v…
3. Sự phù hợp giữa
tên đề tài với nội dung, giữa nội dung với chuyên ngành và mã số chuyên ngành.
Tên đề tài phù hợp với nội dung đề tài
Nội dung đề tài phù hợp với chuyên ngành và mã số
chuyên ngành văn hóa học.
4. Độ tin cậy và
tính hiện đại của phương pháp đã sử dụng để nghiên cứu:
Với đề tài này và mã ngành văn hóa học, NCS sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành trong văn hóa học là phù hợp. Những ngành tác
giả sử dụng là phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống,
phân loại. Lẽ ra tác giả nên phân chia thành 2 phần, phần phương pháp luận và
phương pháp cụ thể và làm rõ các hướng tiếp cận đề tài.
Luận án này liên quan nhiều đến các tôn giáo có nguồn
gốc Ấn Độ và các tác phẩm điêu khắc Chăm Pa đều gắn kết chặt chẽ với tôn giáo. NCS
đã khẳng định “múa Chăm qua điêu khắc là hình thái MÚA TÔN GIÁO”, và trong luận
án, tác giả có phân tích về các tôn giáo có nguồn gốc Ấn Độ như Bà la môn, Phật
giáo, Ấn Độ giáo, cần bổ sung ngành nghiên
cứu tôn giáo và làm rõ quá trình du nhập, thay đổi, phát triển tôn giáo
trong lịch sử Chăm Pa. Trong thực tế, những tác phẩm điêu khắc Chăm Pa NCS sử dụng
trong luận văn chủ yếu là thời kỳ Ấn Độ giáo phát triển mạnh ở Chăm Pa, trong
đó, giáo phái Shiva là chủ đạo, là sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền
trong các triều đại Chăm Pa, hầu hết những phù điêu, tượng đá Chăm Pa đều được
gắn với các cơ sở thờ tự của tôn giáo Chăm. Chính vì thiếu hướng tiếp cận tôn
giáo nên sự phân tích nguồn gốc của các hình tượng người múa trên các tác phẩm
điêu khắc gắn với tôn giáo Chăm còn những hạn chế nhất định.
Đây là một luận án mà nội dung thiên về nghệ thuật
điêu khắc và nghệ thuật múa nên tác giả cần bổ sung phương pháp nghệ thuật học
để làm rõ nghệ thuật điêu khắc Chăm (đường nét, bố cục, màu sắc, chất liệu) và
nghệ thuật múa (ngôn ngữ động tác, hình thể, nhịp điệu, tiết tấu) được các nghệ
sỹ thể hiện trên các tác phẩm điêu khắc đá và điêu khắc gạch nổi tiếng của Chăm
Pa.
Đối tượng nghiên cứu của luận án, ngoài 22 tác phẩm điêu khắc Chăm Pa có
hình người múa (9 tượng Shiva múa, 10 tượng vũ nữ múa, 3 tượng không nằm trong
hai thể loại trên là tượng “Đấu vật Khương Mỹ”, “Chiến sĩ bay” và “Vũ nhạc triều
đình Chánh Lộ)”, các tác phẩm múa Chăm đương đại, tác giả cần bổ sung đối tượng
so sánh là múa Ấn Độ; Trong luận án, NCS không xếp 3 tác phẩm trên vào phong
cách múa nào.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian
nghiên cứu: Không gian nghiên cứu
không chỉ là những phù điêu có hình dáng, tạo hình múa đã được xếp loại. Không
gian nghiên cứu của luận án là miền Nam Trung bộ Việt Nam, là không gian của
vương quốc Chăm Pa xưa (từ Indrapura đến Panduraga) và có mở rộng nghiên cứu
múa Ấn Độ, Campuchia.
Về thời gian
nghiên cứu: Lâm Ấp, Hoàn Vương,
Chiêm Thành là quá trình lịch sử Chăm Pa. Tác giả cần lấy tư liệu xác định niên
đại 22 tác phẩm điêu khắc có hình người múa sử dụng trong luận văn để xác định
thời gian nghiên cứu. Những tác phẩm điêu khắc ấy ra đời chủ yếu từ thế kỷ XIII
đến thế kỷ XVI. Ngoài ra, thời gian nghiên cứu liên quan đến những tác phẩm múa
đương đại do các biên đạo mới sáng tác để so sánh.
Cơ sở lý luận: NCS cần làm rõ khái niệm về nghệ thuật múa, về các
hình thái múa, cần làm rõ hình thái múa cung đình và hình thái múa tôn giáo. Vì
theo các biên đạo múa, khi đề cập đến hình tượng múa trên các tác phẩm điêu khắc
Chăm Pa đều có thiên hướng cho rằng đó là múa cung đình “Bước đầu tìm hiểu,
khôi phục múa cung đình Chăm” (Đặng Hùng, TLTK [43]).
Về giả thuyết
nghiên cứu: Phần này NCS thể hiện bằng
câu hỏi nghiên cứu (tr.8). Nếu là câu hỏi nghiên cứu cho luận án này phải là:
(nếu tác giả khẳng định là hình thái múa tôn giáo).
- Phải chăng hình người múa trên các tác phẩm điêu khắc
Chăm Pa là hình thái múa tôn giáo của người Chăm xưa? (hình thái múa tôn giáo hay múa cung đình?). Theo tôi, đây là câu hỏi quan trọng vì đây là nội
dung cốt lõi của luận án: hình tượng múa trên các tác phẩm điêu khắc Chăm Pa là
hình thái múa gì? Có phải tất cả hình tượng múa trên các tác phẩm điêu khắc đều
là múa tôn giáo? Có thể những bức tượng hình Shiva múa là hình thái múa tôn
giáo? Còn những bức tượng vũ nữ múa và vũ công có phải là hình thái múa tôn
giáo? Chúng ta đều biết, các vương triều Chăm Pa đều gắn với tôn giáo, là vương
quyền gắn với thần quyền mà tiêu biểu là phù điêu Mukhalinga, mặt vua Po
Klongirai và Porome gắn lên chiếc linga, biểu tượng “vua – thần” ở các tháp
Chăm tại Ninh Thuận. Phải chăng các điệu múa trên các phù điêu tượng đá vừa là
hình thái múa tôn giáo vừa là múa cung đình?
5. Kết quả nghiên
cứu mới của tác giả
Văn hóa Chăm nói chung được nhiều nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước quan tâm với hàng chục nghìn công trình, bài báo khoa học đã công
bố. Tuy nhiên, lại rất thiếu những công trình nghiên cứu về lĩnh vực nghệ thuật
Chăm Pa nói chung, nghệ thuật múa Chăm Pa nói riêng. Luận án này đáp ứng được
nhu cầu đó.
Trên cơ sở phân tích 22 phù điêu, tượng đá có hình người
múa, tác giả đã rút ra được những kết luận có tính mới về mặt khoa học như sau:
1/. Khẳng định múa Chăm qua điêu khắc là hình thái múa
Tôn giáo.
2/. Đúc kết được 3 đặc điểm múa Chăm qua điêu khắc.
3/. Đúc kết múa Chăm qua điêu khắc có 2 phong cách:
Phong cách múa Shiva và phong cách múa vũ nữ. (phong cách múa nam và phong cách
múa nữ).
4/. So sánh múa Chăm qua điêu khắc với múa cổ điển Ấn
Độ.
5/. Phân tích, so sánh một số tác phẩm múa Chăm đương
đại với múa trong điêu khắc.
6/. Từ những kết quả nghiên cứu, NCS đưa ra những giải
pháp ứng dụng và phát huy nghệ thuật múa Chăm vào múa đương đại.
Đây là những nghiên cứu có giá trị và là thành công của
luận án.
6. Ưu điểm và nhược
điểm về nội dung, kết cấu và hình thức của luận án
- Ưu điểm: Với sự dày công nghiên cứu, điền dã, phân tích, so
sánh và với chuyên môn nghề múa, NCS đã dồn hết tâm huyết đi tìm những giá trị
nghệ thuật múa trên 24 tác phẩm phù điêu, tượng đá có hình người múa. Để tìm hiểu
được những giá trị ấy, NCS đã phải tìm hiểu lịch sử, quá trình tiếp biến văn
hóa hàng thiên niên kỷ hình thành, phát triển, lụi tàn của văn hóa Chăm Pa, đi
tìm nguồn gốc sâu xa của các hình tượng người múa trong điêu khắc Chăm Pa và so
sánh với múa cổ điển Ấn Độ và rút ra những kết luận có giá trị khoa học. Từ đó,
tác giả đưa ra những giải pháp ứng dụng và phát huy nghệ thuật múa Chăm vào múa
đương đại. Kết quả nghiên cứu của luận án đã làm rõ hơn nguồn gốc, tính biểu tượng,
tính tôn giáo của các hình người múa trong điêu khắc (tác giả còn gọi là “vũ công hóa đá”), có thể sử dụng tư liệu
giảng dạy về múa Chăm trong trường múa, là tư liệu quý để các biên đạo múa hiểu
sâu sắc hơn về múa Chăm trên tượng đá để sáng tác những tác phẩm mới đúng với
tín ngưỡng tôn giáo và cái hồn trong các ngôn ngữ động tác múa Chăm, trên cơ sở
những ngôn ngữ động tác tay, chân, đầu, cổ đã được khắc vào thời gian bằng những
hình người múa trên phù điêu, tượng đá cổ để sáng tạo hình tượng múa hiện đại (có
thể gọi là “tượng đá hóa vũ công”).
- Nhược điểm:
Về Phương pháp
nghiên cứu chưa thật sự đầy đủ,
khoa học. Chưa triệt để kế thừa, tận dụng được khối lượng tài liệu tham khảo về
lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa đã có.
Phần cơ sở lý luận cần làm rõ hơn các khái niệm về múa, các hình thái
múa và cần làm rõ sự khác biệt giữa múa dân gian Chăm đang tồn tại hiện nay,
múa cổ điển Ấn Độ với hình người múa trong các tác phẩm điêu khắc xưa với khoảng
cách thời gian hàng vài thế kỷ.
Về nội dung:
“Phong cách Shiva múa” (theo cách gọi của NCS): NCS lựa
chọn 10 tác phẩm điêu khắc hình thần Shiva múa và đưa vào phong cách Shiva múa. Để khoa học hơn, tác giả cần nêu rõ lý lịch từng
phân loại và lập danh mục trình bày thứ tự theo niên đại vì tuy có cùng đặc điểm
thể hiện thần Shiva múa nhưng có những tác phẩm ra đời cách nhau hàng thế kỷ
(trong phần trình bày, có tượng có niên đại, có tượng không). Trong việc phân
tích cần tìm những điểm giống nhau và khác nhau của 10 bức phù điêu Shiva múa. Nhìn
khái quát 10 bức tượng Shiva múa trong phần phụ lục, có thể thấy điểm chung về
ngôn ngữ hình thể người múa là khuỳnh chân, một trụ, một kiễng, thân hình
nghiêng cân đối với chân trụ thể hiện tính cân đối, vững chãi của thế đứng, 4 bức
nghiêng bên phải, 2 bức nghiêng bên trái, còn lại là thẳng đứng. Điểm đáng chú
ý là số tay của các bức tượng không phải là sự ngẫu nhiên mà tuân thủ những quy
luật có tính biểu tượng nhất định. Những tượng nhiều tay nhiều mắt (nghìn tay,
nghìn mắt – nghìn đây là số phiếm chỉ) xuất hiện nhiều ở các tôn giáo có nguồn
gốc Ấn Độ như Bà la môn giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo.
Phong cách vũ nữ (theo cách gọi của NCS): Điểm đáng
chú ý của các bức tượng hình vũ nữ là tính phồn thực mạnh với sự phóng đại những
bầu vú. Hình tượng nữ trên các tác phẩm điêu khắc Chăm có điểm chung là những cặp
mắt, mũi, môi mang đậm nét nhân chủng
Chăm. Phải chăng đó là tính bản địa trong sáng tạo nghệ thuật Chăm Pa xưa.
Về sự tiếp biến,
lan tỏa nghệ thuật múa Chăm Pa trong khu vực:
Tác giả sử dụng tư liệu trong kỷ yếu hội thảo [55], về
sự kiện nhà sư Chăm Phật Triết và nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Thiên Na đã đưa nghệ thuật
âm nhạc và múa Chăm sang truyền bá ở Nhật Bản vào năm 736 (tr.110, 111, 112) và
tác giả cho rằng “hiện hai điệu khúc vũ đạo Lâm Ấp vẫn tồn tại và duy trì trình
diễn trong những đại lễ cúng Phật ở các chùa Nhật Bản và tu viện Phật giáo ở
Tây Tạng”. Kết luận này cần có sự thận
trọng nhất định. Năm 2010, tôi cùng đoàn chuyên gia của Viện Nghiên cứu Văn hóa
Nghệ thuật Việt Nam phối hợp với các Giáo sư nhạc viện Tokyo đã đến xem các điệu
múa tại sân khấu cung đình Nhật Bản và ở các chùa ở Nhật Bản, nghiên cứu khá kỹ
thể loại múa cổ “Ga Ga Kự” để đi tìm dấu vết âm nhạc và múa Lâm Ấp được nhà sư
Chăm và nhà sư Ấn Độ truyền sang theo tư liệu lịch sử. Trải qua 13 thế kỷ, những
điệu múa này đã có nhiều biến đổi (đề tài cấp Bộ của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam). Đoàn các giáo sư nhạc viện Tokyo cũng đã đến tận Đoàn Nghệ thuật dân gian
Chăm Ninh Thuận xem để đi tìm những sự tương đồng và dị biệt của múa Chăm đương
đại với múa trong các chùa của Nhật Bản.
7. Nội dung của luận
án đã được công bố trên tạp chí, kỷ yếu hội nghị khoa học nào và giá trị khoa học
của các công trình đã công bố:
- 3 bài báo NCS công bố trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật
và tạp chí Văn hóa học đều có giá trị khoa học và phản ánh một phần nội dung của
Luận án.
8. Về hình thức: Luận án tuân thủ trường quy về hình thức và nội dung
của một luận án tiến sĩ. Bản tóm tắt luận án trung thành với nội dung cơ bản của
luận án. Luận án ít lỗi kỹ thuật.
9. Kết luận chung
Mặc dù còn một vài nội dung cần bổ sung, chỉnh sửa,
nhưng nhìn chung đề tài đạt được những yêu cầu cơ bản của một luận án tiến sỹ.
NCS xứng đáng nhận
học vị Tiến sỹ Văn hóa học.
TS
Phan Quốc Anh